Các yếu tố thúc đẩy sự thay đổi trong ngành nuôi trồng thủy sản ở Châu Á
[This post has been translated from English to Vietnamese. You can find the original post here. This translation was made possible with support from World Animal Protection courtesy of a grant from the Open Philanthropy Project.]
Số lượng cá và động vật có vỏ bị giết để làm thực phẩm mỗi năm ngày càng tăng. Chỉ riêng từ năm 2007 đến năm 2012, các sản phẩm động vật thủy sản đã tăng từ 141 lên 158 triệu tấn. Cùng với sự gia tăng này, người tiêu dùng đã nhận thức rõ hơn tới các mối quan tâm về đạo đức, môi trường và sức khỏe liên quan đến các hoạt động đánh bắt cá hiện đại.
Nhưng có một mức độ ngăn cách nhất định giữa những người ủng hộ động vật và những con vật biển đang phải chịu đựng đau khổ. Chế biến, vận chuyển và tiếp thị là những ví dụ về các nút giao trong chuỗi thực phẩm, những nút giao này có thể ảnh hưởng đến những thay đổi lớn hơn trong thị trường thủy sản.
Nghiên cứu từ giữa những năm 2010 này xem xét sâu hơn tất cả các bước liên quan đến sản xuất “thủy sản”, để hiểu rõ hơn điều gì thúc đẩy sự thay đổi trong hệ thống ở Châu Á. Các nhà nghiên cứu hướng đến việc tìm hiểu những yếu tố có nhiều khả năng tạo ra hoặc ngăn cản sự thay đổi trong các lĩnh vực an toàn thực phẩm và phát triển bền vững. Để điều tra điều này, họ đã thu thập một loạt dữ liệu ngành từ các cuộc phỏng vấn, cơ sở dữ liệu và tài liệu.
Thị trường thủy sản rất phức tạp và cấu trúc của mỗi chuỗi thức ăn lại khác nhau tùy thuộc vào quốc gia và loài động vật được sử dụng làm thực phẩm. Bài báo này chỉ tập trung vào các chuỗi thực phẩm cụ thể ở bốn quốc gia: Trung Quốc, Việt Nam, Bangladesh và Thái Lan. Bốn quốc gia này cùng nhau đại diện cho một tỷ lệ đáng kể – 20% – của tất cả các mặt hàng thủy sản xuất khẩu.
Một chủ đề khác được xem xét là vai trò của các quy định trong nước của các nước xuất khẩu. Các quy định này có thể xuất phát từ các cơ quan chính phủ, các tổ chức tư nhân hoặc các tổ chức phi chính phủ. Các thể chế nội bộ mạnh mẽ cho phép các quốc gia kiểm tra các sản phẩm thực phẩm, giám sát tất cả các bước của quá trình sản xuất và thực thi các tiêu chuẩn mới. Khi các khuôn khổ tập trung này được áp dụng, các quốc gia có khả năng tốt hơn để thúc đẩy thay đổi trong bất kỳ chuỗi thực phẩm nào của họ. Các quốc gia có các quy định trong nước mạnh mẽ thường có được danh tiếng tốt hơn trong số các nhà nhập khẩu và thu được lợi nhuận lớn hơn. Họ cũng được trang bị tốt hơn để áp dụng các chứng chỉ bền vững của bên thứ ba.
Chủ đề thứ hai là tầm quan trọng của sự công khai tiêu cực trong việc thúc đẩy thay đổi. Trong số các chiến dịch, cái có tác động mạnh nhất là tổ chức phi chính phủ và các hoạt động quảng bá trên phương tiện truyền thông được thực hiện ở Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ. Các chiến dịch này đã dẫn đến việc sử dụng rộng rãi hơn các hệ thống chứng nhận của bên thứ ba. Họ cũng yêu cầu các tiêu chuẩn chất lượng và bền vững cao hơn đối với các nhà xuất khẩu Châu Á.
Thông thường, các nhà cung cấp Châu Á đã vươn lên để đáp ứng nhu cầu của các nhà nhập khẩu của họ. Nhưng một số chuỗi cung ứng phản ứng chậm hơn với các tổ chức phi chính phủ và nhu cầu của người tiêu dùng. Một ví dụ tiêu biểu là chuỗi thức ăn động vật có vỏ ở Bangladesh, vốn bán tôm và tôm thương phẩm chủ yếu cho các thị trường dịch vụ thực phẩm cấp thấp và bán buôn. Những thị trường này thường không được các tổ chức phi chính phủ đặt làm mục tiêu và chậm yêu cầu các tiêu chuẩn chất lượng hoặc tính bền vững cao hơn.
Ngoài ra, các quy định chặt chẽ hơn ở Hoa Kỳ và Anh đôi khi khiến các nhà xuất khẩu ở Châu Á phải tìm kiếm các quốc gia mới để bán hàng cho họ. Các quốc gia Châu Á khác như Nga và Trung Đông đều ít có khả năng yêu cầu các tiêu chuẩn cao hơn về tính bền vững.
Trong vài thập kỷ tới, các tác giả lưu ý rằng tiêu thụ thủy sản dự kiến sẽ tăng lên cùng với thu nhập và dân số. Các nhà sản xuất thủy sản ở Châu Á sẽ có nhiều lựa chọn hơn để bán trong nước, khiến họ ít phụ thuộc vào Hoa Kỳ và Vương quốc Anh như là những thị trường tiêu thụ. Điều này có nghĩa là các thị trường Hoa Kỳ và Anh sẽ cần phải làm nhiều hơn nữa để duy trì mối quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp Châu Á và hỗ trợ các nhà sản xuất Châu Á trong việc thúc đẩy tính bền vững. Mặc dù vậy, các tác giả kỳ vọng rằng truyền thông và các tổ chức phi chính phủ sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự thay đổi.
Bằng cách xem xét các nghiên cứu điển hình này, những người ủng hộ động vật có thể có được cái nhìn toàn diện hơn về ngành mà ta đang cố gắng tạo ảnh hưởng. Tuy ngành nuôi trồng thủy sản rất phức tạp, có nhiều cơ hội để đạt được sự tiến bộ.
https://doi.org/10.1016/j.foodpol.2014.08.004
